Về ta, trong năm 1974, việc xây dựng lực lượng, chuẩn bị chiến trường tiếp tục được tiến hành với nhịp độ ngày càng khẩn trương. Ba quân đoàn chủ lực lần lượt ra đời, một khối lượng vật tư chiến tranh gần 50 vạn tấn được chuyển vào miền Nam, hệ thống đường chiến lược, chiến dịch phát triển nhanh và ngày càng hoàn thiện.
Nắm vững thời cơ cách mạng đang đến, từ ngày 18-12-1974 đến ngày 8-1-1975, Bộ Chính trị họp quyết định về quyết tâm chiến lược giải phóng miền Nam, trong đó Nam Tây Nguyên là hướng chiến lược chủ yếu trong cuộc tổng tiến công lớn trong năm 1975. Ngày 9-1-1975, Thường trực Quân ủy Trung ương họp quán triệt và tổ chức thực hiện Nghị quyết Bộ Chính trị về Chiến dịch Tây Nguyên. Tại hội nghị, ý định giải phóng Buôn Ma Thuột hình thành rõ rệt và chiến dịch Tây Nguyên chính thức được quyết định mở với mật danh “Chiến dịch 275”.
 |
Bộ đội ta đánh chiếm sân bay Buôn Ma Thuột trong Chiến dịch Tây Nguyên - Mở đầu cho cuộc Tổng tiến công mùa Xuân năm 1975. Ảnh tư liệu
|
Tây Nguyên là vùng đất chiến lược quan trọng, trong quá trình xâm lược Việt Nam, Mỹ - ngụy đã tiến hành xây dựng Tây Nguyên thành một căn cứ chiến lược lớn nhằm đè bẹp phong trào cách mạng của ba nước Đông Dương, ngăn chặn sự chi viện của ta từ miền Bắc vào và từ rừng núi xuống đồng bằng. Sở chỉ huy Quân đoàn 2, Quân khu 2 ngụy quân Sài Gòn được đặt ở Pleiku. Dọc theo biên giới Việt Nam - Campuchia là các trại biệt kích, dọc Đường 14 là hệ thống các căn cứ quân sự dày đặc trong đó có các căn cứ cấp sư đoàn và quân đoàn được tổ chức vững chắc thành tuyến phòng ngự cơ bản làm nòng cốt cho hệ thống phòng thủ của địch ở Tây Nguyên. Trên các trục đường ngang, như: 19, 21 cũng được địch tổ chức thành các tuyến phòng thủ mạnh để bảo đảm giao thông từ Tây Nguyên xuống đồng bằng. Toàn bộ lực lượng địch ở Tây Nguyên có Sư đoàn bộ binh 23 (gồm 3 trung đoàn: 44, 45 và 53), 7 tiểu đoàn biệt động quân (21, 22, 23, 24, 45, 4, 6), 36 tiểu đoàn bảo an, 4 thiết đoàn thiết giáp, 230 khẩu pháo, Sư đoàn 6 không quân với 150 máy bay các loại. Nhìn tổng thể, địch bố trí mạnh ở phía Bắc, còn khu vực phía Nam được xem như là hậu phương bố trí lực lượng mỏng hơn.
Sau khi hạ quyết tâm mở chiến dịch Tây Nguyên, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương quyết định thành lập Đảng ủy và Bộ Tư lệnh chiến dịch Tây Nguyên, Trung tướng Hoàng Minh Thảo được giao trọng trách làm Tư lệnh, Đại tá Đặng Vũ Hiệp làm Chính ủy, Bí thư Đảng ủy chiến dịch. Khu ủy Khu 5 cử đồng chí Bùi San, Phó bí thư Khu ủy và đồng chí Nguyễn Cần, Bí thư Tỉnh ủy Đắk Lắk đi cùng Đảng ủy, Bộ Tư lệnh chiến dịch trực tiếp chỉ đạo các tỉnh phối hợp chặt chẽ với bộ đội chủ lực trong chuẩn bị cũng như trong tác chiến. Bộ phận đại diện của Quân ủy và Bộ tổng Tư lệnh do Đại tướng Văn Tiến Dũng chủ trì cũng được đặt tại Tây Nguyên để trực tiếp chỉ đạo chiến dịch.
Lực lượng tham gia chiến dịch gồm các sư đoàn bộ binh (10, 320, 316, 3 và 968); bốn trung đoàn bộ binh (25, 29B, 271, 95A); Trung đoàn đặc công 198; hai tiểu đoàn đặc công (14, 27); hai trung đoàn pháo binh (40, 675); ba trung đoàn phòng không (232, 234, 593); Trung đoàn xe Tăng Thiết giáp 273; hai trung đoàn công binh (7, 575); Trung đoàn thông tin 29; Trung đoàn ô tô vận tải và lực lượng vũ trang tỉnh Đắk Lắk, Kon Tum và Gia Lai[1].
 |
Bộ đội truy kích địch trong Chiến dịch Tây Nguyên. Ảnh tư liệu |
Sau khi được thành lập, Đảng ủy Bộ Tư lệnh chiến dịch nhanh chóng quán triệt nhiệm vụ và xây dựng quyết tâm chiến dịch. Nhiệm vụ chủ yếu mà Bộ Chính trị và Quân ủy giao ngày 21-1-1975: “tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch (diệt Sư đoàn 22, đánh thiệt hại nặng Quân đoàn 2 ngụy), giải phóng các tỉnh Đắk Lắk, Phú Bổn, Quảng Đức; mục tiêu then chốt là thị xã Buôn Ma Thuột và ba quận lỵ Đức Lập, Cẩm Ga, Kiến Đức, mở rộng hành lang, nối liền Tây Nguyên với miền Đông Nam Bộ, thực hiện chia cắt chiến lược, tạo cục diện mới về chiến lược”[2].
Căn cứ vào nhiệm vụ được giao, Bộ Tư lệnh chiến dịch xác định quyết tâm và kế hoạch chiến dịch: Hướng và khu vực tác chiến chủ yếu: Buôn Ma Thuột - Đức Lập; mục tiêu đánh mở đầu là Đức Lập, mục tiêu chủ yếu quyết định: thị xã Buôn Ma Thuột. Hướng và mục tiêu quan trọng: Thuần Mẫn (Cẩm Ga) nhằm cắt đứt Đường 14, chia cắt địch về chiến dịch, ngăn chặn dự bị của địch từ Pleiku xuống Buôn Ma Thuột. Hướng phát triển: Phú Bổn, Quảng Đức, chủ yếu là Phú Bổn, bao gồm cả thị xã Cheo Reo. Hướng bao vây chia cắt chiến dịch: cắt Đường 19 từ đông Pleiku qua An Khê tới đông Bình Khê, cắt Đường 21 trên đoạn đông tây Chư Cúc. Hướng kiềm chế nghi binh, giam chân khối chủ lực của Quân đoàn 2 ngụy quân Sài Gòn là Kon Tum, Pleiku.
Cách đánh cụ thể được xác định là tiến công nghi binh vào Pleiku và Kon Tum, cắt Đường 14, thu hút và giam chân phần lớn chủ lực địch ở bắc Tây Nguyên; cắt đứt hai trục Đường 19 và 21 để ngăn chặn, tiêu diệt lực lượng dự bị của địch từ đồng bằng lên Tây Nguyên và quân địch ở Tây Nguyên rút chạy; đánh chiếm Đức Lập, Thuần Mẫn nhằm cô lập thị xã Buôn Ma Thuột; tập trung lực lượng chủ yếu giáng đòn quyết định giải phóng thị xã Buôn Ma Thuột, sẵn sàng đánh bại phản kích của địch. Trận then chốt đánh thị xã Buôn Ma Thuột được dự kiến trong trường hợp địch chưa kịp tăng cường phòng ngự dự phòng, và ngay cả trong trường hợp địch đã tăng cường phòng ngự dự phòng.
Thực hiện kế hoạch tác chiến, ngày 4-3, chiến dịch Tây Nguyên nổ súng tiến công địch. Sau một số trận đánh tạo thế và nghi binh chiến dịch, ngày 10 và 11-3, quân ta tiến công bằng sức mạnh hiệp đồng binh chủng giải phóng thị xã Buôn Ma Thuột. Đây là trận then chốt quyết định của chiến dịch, một trận “điểm đúng huyệt”, làm rối loạn sự chỉ đạo chiến lược và đảo lộn thế phòng thủ của địch ở Tây Nguyên, mở đầu cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975.
Từ ngày 14 đến 18-3, quân ta đánh trận then chốt thứ hai, đập tan cuộc phản kích của Quân đoàn 2 ngụy, tạo thế chia cắt địch về chiến lược, đẩy quân địch ở Tây Nguyên vào thế tan vỡ. Từ ngày 17 đến 24-3, quân ta đánh trận then chốt thứ ba, truy kích tiêu diệt tập đoàn quân địch rút chạy trên Đường số 7; giải phóng Kom Tum, Gia Lai và toàn bộ Tây Nguyên. Từ đầu tháng 4-1975, ta tiếp tục phát triển xuống duyên hải Trung Bộ, diệt Lữ đoàn dù 3, Trung đoàn bộ binh 40, Liên đoàn biệt động quân 24, giải phóng các tỉnh Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa.
Đến ngày 24-3-1975, chiến dịch Tây Nguyên kết thúc thắng lợi. Kết quả, ta tiêu diệt và làm tan rã Quân đoàn 2 thuộc Quân khu 2 ngụy quân Sài Gòn, loại khỏi vòng chiến đấu hơn 28 nghìn quân địch, thu và phá hủy 154 máy bay, 1.096 xe quân sự, 17.188 súng pháo các loại, giải phóng 5 tỉnh Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Phú Bổn, Quảng Đức và một số tỉnh Trung Bộ[3].
Chiến dịch Tây Nguyên làm thay đổi cơ bản so sánh lực lượng và thế chiến lược giữa ta và địch trên toàn miền Nam. Thắng lợi của chiến dịch có ý nghĩa chiến lược vô cùng to lớn, bước ngoặt quyết định, đưa cuộc tiến công chiến lược của ta phát triển thành cuộc tổng tiến công và nổi dậy trên toàn miền Nam. Những phát triển nghệ thuật quân sự trong chiến dịch là nghệ thuật bày mưu kế, lập thế trận, chọn mục tiêu tiến công và phát triển tiến công. Chiến thắng Tây Nguyên là cơ sở để Bộ Chính trị kịp thời bổ sung quyết tâm giải phóng miền Nam ngay trong năm 1975.
Đánh giá về ý nghĩa của chiến dịch Tây Nguyên, Tư lệnh Hoàng Minh Thảo nhấn mạnh: “Chiến thắng Tây Nguyên đã tạo cho quân dân ta những điều kiện thuận lợi để chuyển sang cuộc Tổng tiến công và nổi dậy ngày càng phát triển mạnh mẽ trên khắp các chiến trường và giành thắng lợi ngày càng lớn”[4].
TRẦN QUỐC DŨNG - Viện Lịch sử quân sự
[1] Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, Tóm tắt các chiến dịch trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2001, tr.462
[2] Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, Tóm tắt các chiến dịch trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975), Sđd, tr.463.
[3] Bộ Quốc phòng, Bách khoa toàn thư quân sự Việt Nam, Quyển 1: Lịch sử quân sự, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2015, tr.283.
[4] Thượng tướng Giáo sư Hoàng Minh Thảo, Chiến dịch Tây Nguyên đại thắng, (tái bản có bổ sung) Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2004, tr.138,